Kênh thông tin đầu tư ở Vietnam

Friday, July 6, 2007

Vỡ đê

Ngày 06/07/2007, 14:22
Vỡ đê!
Cùng với thị trường niêm yết, mặt bằng giá cổ phiếu OTC cũng có đợt giảm giá mạnh chưa từng thấy
(ĐTCK-online) Công văn 7021/2007/CV-NHNN hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN về cho vay đầu tư chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1/7 vừa qua, cộng với dự báo bi quan từ một tổ chức không chuyên về chứng khoán rằng, VN-Index có thể giảm xuống 900 điểm và duy trì trong thời gian còn lại của năm 2007 đã được ghi nhận là có tác động mạnh đến thị trường đầu tuần này.

Nhiều nhà đầu tư cá nhân có ý buông xuôi sau một thời gian mỏi mệt và lo lắng vì thị trường đi xuống. Chỉ trong 2 phiên giao dịch đầu tháng 7, ngưỡng VN-Index 1.000 điểm đã vỡ nhanh chóng với việc hầu hết cổ phiếu niêm yết giảm hơn 4%. Trước tình hình đó, mặt bằng giá cổ phiếu OTC tiếp tục có đợt giảm mạnh chưa từng thấy.

Nhóm cổ phiếu ngân hàng là nhóm chịu hậu quả trực diện. Tính đến chiều 3/7, cổ phiếu Ngân hàng Quân đội (MB) đã giảm xuống mức 6,3 triệu đồng/CP cho dù nhà đầu tư đang chờ quyền mua cổ phiếu lên đến 45% (chốt danh sách ngày 16/7) và sau đó là quyền mua trái phiếu chuyển đổi 3 năm là 60%. Cổ phiếu VPBank được khuyến mãi quyền mua cổ phiếu mới 30% nhưng giá chỉ ở mức 3,8 lần mệnh giá. Sau khi hồi tỉnh một chút vào cuối tuần rồi, cổ phiếu Eximbank tiếp tục được rao bán khắp chợ vì thực tế sức cầu lúc này còn yếu.

Cổ phiếu các công ty bất động sản nhìn chung tiếp tục giảm, mặc dù nhiều doanh nghiệp trong nhóm này được đánh giá cao trong thời gian gần đây như Coteccons, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Intresco. Ghi nhận tại thị trường TP. HCM cho thấy, nhóm cổ phiếu bất động sản đang là lựa chọn rõ ràng nhất của giới đầu tư OTC khi nhóm cổ phiếu ngân hàng chưa hứa hẹn cơ hội trong ngắn hạn.

Các nhóm cổ phiếu OTC còn lại nhìn chung đều giảm. Đối với 7 doanh nghiệp đã nộp đủ hồ sơ niêm yết như TTGDCK TP. HCM công bố, sự nhiệt tình săn lùng của giới OTC đã dừng lại khi nhiều cổ phiếu niêm yết tại sàn TP. HCM và Hà Nội giảm giá quá nhanh.

Phía Bảo Việt đã chính thức công bố rằng, doanh nghiệp sẽ không phải đấu giá lại vì tỷ lệ nộp tiền mua cổ phiếu qua đấu giá đạt trên 70%. Thông tin này chỉ đủ động viên một số nhà đầu tư đã mua cổ phiếu Bảo Việt dưới giá 70.000 đồng/CP nhưng không làm nguôi lòng nhà đầu tư vào các cổ phiếu bảo hiểm khác. Lần đầu tiên, giá cổ phiếu Bảo hiểm Viễn Đông (VASS) được ghi nhận đã rớt trở lại dưới mức 40.000 đồng/CP nhưng hầu như không có người mua.

Công ty Mekophar được xem là một trong 4 công ty tiêu biểu của ngành dược (cùng với Dược Hậu Giang, Domesco và Imexpharm) nhưng còn giữ khoảng cách với TTCK nên tính thanh khoản thấp. Với tình hình thị trường hiện nay, cộng với đặc thù của các công ty dược là cổ đông nội bộ chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều lần so với cổ đông bên ngoài, nhóm công ty ngành dược đến lúc này gần như nằm ngoài sự quan tâm của các nhóm môi giới OTC.

Phần lớn nhà đầu tư hiện nay lo ngại về khả năng thị trường niêm yết và OTC tiếp tục trì trệ và chỉ có thể tăng mạnh từ trung tuần tháng 9. Nếu khả năng này xảy ra, nhà đầu tư dễ dàng bị mắc kẹt bởi các khoản vay cầm cố bằng cổ phiếu, cho nên nếu có đầu tư vào giai đoạn này thì cổ phiếu niêm yết là phương án an toàn hơn.

Phúc Lân

Cấp phép cho CTCK mới: Hạn chế hay không hạn chế?

Ngày 06/07/2007, 10:42
Cấp phép cho CTCK mới: Hạn chế hay không hạn chế?
(ĐTCK-online) Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đã đề xuất với Bộ Tài chính về việc nên có động thái can thiệp để hạn chế phần nào trào lưu ồ ạt thành lập công ty chứng khoán (CTCK) như hiện nay, song chưa nhận được quan điểm chỉ đạo. Phó chủ tịch UBCK, ông Nguyễn Đoan Hùng đã trao đổi với báo ĐTCK-online về vấn đề này.

Theo quy định hiện hành, UBCK có quyền hạn như thế nào với vấn đề cấp phép thành lập CTCK mới, thưa ông?

Tính đến thời điểm hiện tại, hồ sơ xin cấp phép thành lập CTCK mới vào khoảng 50 bộ. Nếu những hồ sơ này đều đủ điều kiện theo luật định thì cộng với khoảng 56 công ty đã được cấp phép, TTCK Việt Nam sẽ có trên 100 CTCK hoạt động.

Liên quan đến vấn đề này, hiện có nhiều ý kiến khác nhau, chính các CTCK cũng phát biểu không nên dùng biện pháp hành chính để can thiệp, song cũng có ý kiến cho rằng, cần thiết hạn chế số CTCK mới, tương tự như ngân hàng có quyền thắt chặt vốn đổ vào thị trường. Luật Ngân hàng Nhà nước nói rõ, Ngân hàng Nhà nước có thể căn cứ theo diễn biến thị trường và ra quyết định. Tuy nhiên, Luật Chứng khoán không nói như vậy mà toàn bộ điều kiện cấp phép trong Luật quy định rất rõ, hồ sơ có đủ điều kiện thì vẫn phải cấp phép, làm sai doanh nghiệp có thể kiện.

Luật quy định cụ thể, vậy có một kênh nào đó để cơ quan chức năng điều chỉnh các quy định dưới luật liên quan đến cấp phép thành lập CTCK không, thưa ông?

Có thể đưa ra một số quy định thắt chặt hơn để hạn chế, nhưng nếu hồ sơ đủ thì vẫn phải cấp phép, như trước đây quy định các CTCK chỉ cần có vốn điều lệ 43 tỷ đồng là được thực hiện các nghiệp vụ, nay phải đạt 300 tỷ đồng, gấp hơn 5 lần mà người ta vẫn ào ào đăng ký.

Theo Luật thì quy định về vốn không thể điều chỉnh được, nhưng một số quy định khác được cụ thể hóa trong quy chế tổ chức hoạt động của CTCK có thể xem xét, chẳng hạn về nhân lực, theo quy chế mỗi nghiệp vụ CTCK phải có tối thiểu 3 nhân viên có chứng chỉ, hay điều kiện về tổng giám đốc... Ở các nước như Thái Lan, người ta còn thu phí cấp phép hoạt động, tôi nhớ không rõ, nhưng số tiền có thể lên tới hơn 1 tỷ đồng, thu dần trong 5 năm, ở Việt Nam hiện nay, CTCK vẫn được cấp phép miễn phí.

Ông nói hiện có nhiều quan điểm khác nhau về hạn chế hay không hạn chế việc thành lập của khối CTCK. Vậy quan điểm của UBCK về vấn đề này thế nào?

UBCK đã có đề xuất về việc này rồi. Trước mắt có thể thấy việc có quá nhiều CTCK hoạt động đang gây sự quá tải về cơ sở vật chất, như sàn Hà Nội hết chỗ cho các đại diện giao dịch ngồi, rồi hệ thống mạng của các trung tâm thiếu cửa (nút) để các công ty đấu nối. Nhiều người nói, thị trường mình mới có 200.000 nhà đầu tư, tính trên số dân thì nhỏ, mở room có thêm nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường thì cho mở thêm CTCK cũng không sao. Có ý kiến cho rằng, cứ để công ty thành lập, quy luật cạnh tranh sinh tồn sẽ quyết định công ty nào tồn tại, nhưng nếu không thu hút thêm được lượng nhà đầu tư mới tham gia thị trường, với 200.000 tài khoản hiện nay, lượng khách hàng tính trên mỗi CTCK sẽ rất nhỏ, quy mô nhỏ thì đầu tư cho công nghệ lại hạn chế.

Vậy Ủy ban có tính đến cách nào đó phi hành chính để hạn chế tình trạng nhà nhà làm chứng khoán, như đưa ra một cảnh báo chẳng hạn?

Cảnh báo thì không được, vì người dân có quyền tự do kinh doanh. Nhưng Ủy ban có thể tiến hành các đợt kiểm tra cơ sở vật chất, sàn giao dịch, hạ tầng mạng, công nghệ tại các CTCK để đảm bảo những doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt động đúng và đầy đủ điều kiện.

Cấp phép thành lập nhiều, vậy Ủy ban có tính đến chuyện sẽ rút giấy phép công ty không đủ điều kiện?

Từ trước đến nay, Ủy ban chưa rút giấy phép công ty nào. Quả thật, qua kiểm tra chúng tôi quyết định phạt nhiều, nhưng rút giấy phép thì chưa, theo quy định xử phạt hành chính, chưa có CTCK vi phạm lỗi đến mức bị rút giấy phép.

Nhật ký kỳ thi sát hạch chứng khoán

Ngày 06/07/2007, 14:35
Nhật ký kỳ thi sát hạch chứng khoán
(ĐTCK-online) Ngày 30/6 vừa qua, UBCKNN tổ chức kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán cho 946 thí sinh từ các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ tại cả hai đầu Nam, Bắc.

Có thể nói, đây là đợt thi sát hạch được tổ chức quy mô nhất từ trước tới nay. Là một thí sinh tham dự, tôi vừa hồi hộp vừa lo lắng, cái cảm giác lo lắng rất thường tình trước bất kỳ một cuộc thi nào. Bên cạnh đó, tôi cũng thấy vui mừng bởi quy mô của kỳ thi, nó nói lên sự lớn mạnh của thị trường hơn hẳn so với những năm trước đây. Tuy nhiên, những "sự cố" trong kỳ thi khiến tôi và nhiều thí sinh thất vọng.

Đúng 16 giờ ngày 29/6, tôi có mặt tại Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán để nghe phổ biến về quy chế thi và xem số báo danh. Chen chúc mãi trong hàng trăm con người mới nhìn thấy tên mình, nhưng không thấy quy chế thi. Hỏi ra mới biết là phải lên hội trường tầng 2, trộm nghĩ giá như Trung tâm dán thông báo có phải tiện không nhỉ? Lên đến tầng 2 đã thấy đủ mặt anh tài, có những gương mặt quen thuộc vốn gắn bó với thị trường mà tôi đã biết trong nhiều năm qua và có cả những cô cậu trẻ măng (chắc là mới ra trường) với niềm háo hức thể hiện rõ trên gương mặt. Thi sát hạch để được cấp chứng chỉ hành nghề trong ngành chứng khoán, oách ra phết chứ có phải thường đâu. Chờ đến 16 giờ 40 phút, mới có một đại diện Trung tâm ra phổ biến quy chế thi. Nào là thí sinh không được sử dụng điện thoại di động, nào là không được phép mang tài liệu vào phòng thi, phải có mặt trước giờ thi 15 phút... 10 phút sau, vị đại diện trên kết thúc phần trình bày và gửi lời chúc các thí sinh may mắn vào ngày mai. Gần 500 con người đứng dậy thở dài, dường như tất cả đều chung một suy nghĩ: tưởng có thông tin gì, biết thế này chẳng đến cho xong. Nóng nực, chen chúc, chờ đợi và mệt mỏi. Cậu bạn đi cùng tôi thốt lên: sao những việc như thế này Trung tâm không đưa thông tin lên mạng? Đỡ mất thời gian cho Trung tâm và thí sinh. Cả một đoàn người rồng rắn đi xuống và lại phải chen chúc xem tên mình một lần nữa, vì có thông báo sẽ chia ra hai địa điểm thi, một tại Trung tâm và một tại địa điểm khác. Ai cũng cố xem mình có phải thay đổi địa điểm thi không vì Trung tâm vừa mới dán lại thông báo vài phút trước đó. Buồn thay!

Ngày 30/6, đúng 8 giờ sáng tôi có mặt tại phòng thi. Sau khi nghe vị giám thị phòng thi phổ biến quy chế (là những nội dung được phổ biến hôm trước) và được phát giấy nháp lẫn đề thi, vị giám thị đính chính một số thông tin trong đề thi bị sai. Có lẽ việc này đã được phát hiện ra sau khi niêm phong đề nhưng trước khi vào phòng thi nên giám thị đính chính trước khi thí sinh làm bài. Cũng dễ hiểu thôi, ngọc còn có vết huống chi là 100 câu hỏi như thế này. Chúng tôi yên tâm ngồi làm bài. Theo hướng dẫn của giám thị, có ba câu trong phần thi môi giới cần phải tính toán và viết đáp án ra một phần riêng, chứ không khoanh tròn lựa chọn câu trả lời đúng nhất như những câu hỏi khác. Thế nhưng, khi thí sinh hỏi viết đáp án vào đâu, giám thị lúng túng vì quả thực trên phần giấy điền đáp án để thí sinh trả lời không có hướng dẫn chỗ trả lời cho các câu hỏi này. Không thí sinh nào dám tự tiện điền vào chỗ khác mà ai cũng nghĩ phải hỏi cho chắc, nhỡ điền sai vị trí theo yêu cầu rồi bị loại thì “toi”. Phải mất 15 phút giám thị đi hỏi ở đâu đó rồi mới quay về hướng dẫn thí sinh. Nhiều phút tiếp theo trôi qua, tôi tập trung đọc kỹ từng câu hỏi để trả lời phương án đúng nhất. Chợt có ý kiến trong phòng thắc mắc hình như có câu hỏi sai, tôi nhìn lại câu hỏi liên quan đến phần khớp lệnh liên tục. Câu hỏi yêu cầu tính giá khớp lệnh trong phiên giao dịch liên quan đến lệnh thị trường (lệnh MP) nhưng đi kèm với lệnh MP người ra đề lại gắn với một mức giá cụ thể. Tôi phải làm thế nào đây? Các thí sinh khác chắc cũng có tâm trạng như tôi. Lệnh MP là lệnh thị trường thì làm gì có giá cụ thể? Phòng thi xôn xao, giám thị lại đi hỏi và lại đính chính. Đích thị là đề sai. Và đúng là đề sai thật. Chúng tôi thở dài ngao ngán.

Chưa hết, thêm một lần nữa, giám thị thông báo tiếp có một câu hỏi sai, đáng lẽ không có từ "ngoại trừ" trong câu hỏi nhưng đề bài lại có, ngay lúc đó mấy thí sinh quay ra nhìn nhau, cười và nói: "Thảo nào mà làm mãi không ra". Tôi cũng cười, cười cho đỡ căng thẳng và bức xúc. Trong suốt thời gian thi, chúng tôi còn bị mất tập trung và gián đoạn nhiều lần vì những đính chính của giám thị liên quan đến sai sót trong việc ra đề. Sai sót thì có vẻ đơn giản vì chỉ là sai sót về chính tả, nhưng thí sinh thì vô cùng lúng túng vì không biết trả lời thế nào? Sai một từ thì nghĩa của câu đã khác đi rồi. Mỗi lần giám thị đính chính là một lần thí sinh mất tập trung, mất thời gian, và chán chường.

Sau 3 tiếng làm bài, tôi ra về. Xung quanh tôi, dưới sảnh toà nhà, trong nơi gửi xe, bên hàng nước.... đâu đâu cũng thấy thí sinh trao đổi và tranh luận với nhau về bài thi. Khổ nỗi, có ai nhớ cụ thể được từng câu như thế nào đâu mà tranh luận (đề thi bị thu lại). Tất cả chỉ là nhớ mang máng. Nếu được thông báo là thi trượt thì cũng không biết mình làm sai ở đâu để mà rút kinh nghiệm? Tôi chợt nhớ ai đó đã nói: "Mỗi lần sai là một lần rút kinh nghiệm". Liệu tôi rút được kinh nghiệm gì đây sau cuộc thi này?

Một thí sinh xin giấu tên

Thursday, July 5, 2007

Có hay không cơn sốt chứng khoán vào cuối năm?

Ngày 06/07/2007, 09:44
Có hay không cơn sốt chứng khoán vào cuối năm?
Sẽ khó có khả năng tái lập cơn sốt chứng khoán như cuối năm 2006
Bên cạnh những dự báo bi quan về thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam sẽ sụt giảm thì cũng không ít dự doán thị trường này sẽ thăng hoa như dịp cuối năm 2006.

Đó cũng là những hy vọng còn lại của nhiều nhà đầu tư khi thị trường đang trồi sụt thất thường như hiện nay. Liệu điều ấy có xảy ra?

Từ nay đến cuối năm, chưa có dấu hiệu nào cho thấy TTCK Việt Nam sẽ tăng đột biến trong 6 tháng tới như cùng thời kỳ năm 2006.

TS. Kinh tế Nguyễn Quang Hưng nhận định: “Giống như cơn sốt đất 5 năm mới lặp lại một lần, TTCK sẽ rất khó tăng đột biến như cuối năm 2006 đầu năm 2007 vì có nhiều yếu tố không thuận lợi”.

Dẫn chứng sinh động nhất là tình hình kinh tế, xã hội và TTCK Việt Nam hiện nay khác rất nhiều so với nửa cuối năm 2006. Khi đó TTCK có rất nhiều điểm để bùng nổ và nhảy vọt. Việc Việt Nam sắp vào WTO, tổ chức APEC và quan trọng nhất là nguồn chứng khoán cung cấp cho thị trường đang còn ít.

Đến nay, trên cả hai sàn Hà Nội và TPHCM đã có 196 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết, chưa kể thời gian vừa qua hàng loạt doanh nghiệp phát hành thêm hàng chục triệu cổ phiếu, các đợt IPO hút hàng chục ngàn tỷ đồng như Đạm Phú Mỹ và Bảo Việt

Trong khi đó, sau đợt điều chỉnh giảm hồi tháng 4/2007, vốn từ chứng khoán đã đổ bớt sang địa ốc và ngành nghề khác, vừa qua Ngân hàng Nhà nước hạn chế cho vay, cầm cố chứng khoán cũng làm vơi đi một lượng tiền đã đang và sẽ đổ vào TTCK.

Bên cạnh đó một lượng tiền cực lớn cũng đang “đông cứng” cùng thị trường OTC hiện đang rất khó “giải ngân”. Nhà phân tích chứng khoán Thiệu Quang Thắng cho biết: “Tôi cho rằng VN-Index sẽ khó lên lại đỉnh 1.170 điểm từ nay đến cuối năm, VN-Index sẽ còn nhiều lần xuống dưới 1.000 rồi lên lại trong khoảng 1.000-1.070 điểm như thời gian qua”.

Tuy nhiên các chuyên gia kinh tế chứng khoán khẳng định việc cung cầu bão hoà chưa phải là nguyên nhân duy nhất khiến TTCK Việt Nam khó thăng hoa trong dịp cuối năm.

Cần lượng vốn khổng lồ để tiêu thụ lượng cổ phiếu sắp phát hành

Tổng giám đốc một quỹ đầu tư nước ngoài phân tích: “Những cổ phiếu tiềm năng tốt, tăng trưởng cao, nhiều triển vọng thì đã hết room hoặc còn không đáng kể, còn đầu tư vào thị trường OTC thì chúng tôi rất ngại nên chưa xác định được thời gian giải ngân”.

Hiện quỹ này đã chuẩn bị sẵn 200 triệu USD để đầu tư vào Việt Nam khi thuận lợi nhưng với tình hình TTCK như hiện nay thì họ đang có kế hoạch đầu tư vào bất động sản và du lịch. Việc hàng loạt các quỹ lớn như Vina Capital, Dragon Capital, Indochina Capital, Bankkinvest... đổ vốn vào các khu du lịch, dự án bất động sản, các công ty mới nổi... cho thấy TTCK không còn là ưu tiên hàng đầu của các quỹ đầu tư.

Nhiều ý kiến cho rằng nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đang đợi các đợt IPO nhưng các đợt IPO của Đạm Phú Mỹ, Nhiệt điện Bà Rịa, Bảo Việt, Vincom... vừa qua các nhà ĐTNN không có thể hiện lớn . Với thực tế trên thì các đợt IPO lớn sắp tới chưa chắc đã thu hút lượng vốn lớn từ nước ngoài.

Ngoài các đợt IPO lớn hút hàng chục ngàn tỷ đồng thì các đợt phát hành cổ phiếu thêm của các doanh nghiệp niêm yết tại TTGDCK Hà Nội và TPHCM sẽ cần một lượng vốn khổng lồ lên tới nhiều chục ngàn tỷ đồng, thậm chí hàng trăm tỷ đồng mới có thể tiêu thụ hết. Tính đơn giản, 1 tỷ USD là khoảng hơn 16 ngàn tỷ đồng, thì với số vốn cần đến rất lớn như vậy, ngay cả khi vốn nước ngoài đổ vào cũng chưa chắc giúp được TTCK lên ngôi như cuối năm 2006.

Vốn trong nước không còn nhiều hoặc chưa muốn đổ thêm vào TTCK, vốn nước ngoài vẫn nằm chờ thì khó hy vọng mức cầu tăng vọt cho nên nhận định VN-Index vẫn nằm trong khoảng 1.000-1.100 điểm dịp cuối năm không phải là một dự đoán vô căn cứ.

Chuyên gia chứng khoán Huy Nam còn cho rằng tâm lý bất an khi đầu tư vào TTCK cũng sẽ là một nguyên nhân chính khiến nhà đầu tư không còn háo hức với thị trường này như năm 2006.

Họ không chỉ sợ những cơn nóng lạnh bất thường đôi khi “cướp” cả gia tài mà còn nhận ra rằng những hạn chế về minh bạch thông tin, quản lý giám sát thị trường, chính sách quản lý... không cải thiện nhiều và giúp thị trường ổn định, phát triển tốt như mong muốn của nhà đầu tư và hứa hẹn của nhà quản lý.

Theo TP

4 định hướng của CTCK

Ngày 05/07/2007, 12:00
4 định hướng của CTCK
Lượng hồ sơ xin thành lập CTCK đang dày thêm ở Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Để đảm bảo “thuận hòa”, cùng phát triển, có 4 định hướng cơ bản mà các thành viên cần bám sát.

Hiện đã có 55 CTCK chính thức hoạt động, một số thành viên đang trong quá trình tiếp cận thị trường và chuẩn bị ra mắt trong thời gian tới. Theo ông Vũ Bằng, Chủ tịch UBCKNN, với tiến độ và lượng hồ sơ gửi về, từ nay đến cuối năm có thể có từ 100 thành viên trên thị trường.

Mở rộng và chuyên sâu

Về con số trên và trong bối cảnh thị trường kém sôi động trong suốt quý II vừa qua, một số ý kiến đã đề cập đến khả năng tạm ngừng cấp phép thành lập mới CTCK, vì những lo ngại như thị phần bị chia nhỏ, cạnh tranh phí dịch vụ, chất lượng hoạt động chưa hoàn thiện vì chạy đua theo phong trào...

Tuy nhiên, kiến nghị này vấp phải phản ứng khá mạnh từ ngay chính đại diện những CTCK đã có thâm niên. Theo những đại diện này, ngừng cấp phép là trái Luật Doanh nghiệp. Trường hợp muốn hạn chế thì có thể nâng cao các điều kiện thành lập để CTCK thực sự có chất lượng.

Mặt khác, sự ra đời của những thành viên mới sẽ tạo thêm cơ hội lựa chọn cho nhà đầu tư, tạo áp lực cạnh tranh để các thành viên không ngừng phát triển, thậm chí nếu có đào thải, đó cũng là quy luật chung của thị trường.

Sự ra đời của loạt thành viên mới dự kiến từ nay đến cuối năm sẽ tạo thêm lực đẩy chung để các CTCK tiến sâu hơn theo định hướng mở rộng hoạt động và chuyên sâu trong nghiệp vụ.

Hai định hướng này đã và đang được triển khai trên thực tế mà tiêu biểu là những thành viên đi trước như CTCK Sài Gòn (SSI), CTCK Ngoại thương (VCBS) với kế hoạch mở rộng mạng lưới tại các địa bàn mới, tỉnh lẻ và ngay tại trung tâm Hà Nội và TP. HCM. Mở rộng địa bàn để tạo hướng mở rộng miếng bánh thị phần, đó cũng là hướng phát triển mang tính đại chúng hơn của TTCK, tạo khả năng hút vốn rộng hơn trong dân cư.

Theo hướng chuyên sâu, SSI có mục tiêu trở thành ngân hàng đầu tư; CTCK Bảo Việt (BVSC), CTCK Thăng Long (TSC)... đầu tư phát triển thế mạnh tư vấn cổ phần hóa. Ngay như kế hoạch lập CTCK của các ngành kinh tế như cao su, dệt may và cả đường sắt cũng tạo thêm tích cực trong chiều sâu và thế mạnh chuyên ngành.

Tiềm lực và con người

Ở định hướng thứ 3, yêu cầu đặt ra là sự phát triển CTCK được đặt trong hệ thống nhà đầu tư có tổ chức, tạo điều kiện để các tổ chức này tham gia thị trường với tư cách là nhà đầu tư chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của nhà tạo lập thị trường.

Trong quy chế thành lập và hoạt động của CTCK, yêu cầu này cũng là một điều kiện cần thiết. Còn trên thực tế, phía sau các thành viên trên thị trường hiện nay đều có vai trò, dáng dấp của các tổ chức là ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư hoặc những tập đoàn kinh tế lớn.

Chính vai trò của những tổ chức này đã góp phần tạo nên tiềm lực của các CTCK ở cả năng lực tài chính, công nghệ, cơ sở hạ tầng và cả kinh nghiệm. Bản thân các đề án xin lập CTCK mới cũng đã lường trước sự khắt khe của nhà đầu tư, khách hàng, sự đòi hỏi của thị trường cao cấp này.

Về yêu cầu con người, định hướng thứ tư mà các CTCK đang đứng trước khó khăn là xây dựng một đội ngũ có trình độ và kinh nghiệm. Phía UBCKNN cũng đã có chủ trương xã hội hóa đào tạo nguồn lực cho thị trường và cho các CTCK, bản thân các thành viên cũng tự xây dựng các chương trình của riêng mình.

Trong tương lai không xa, có thể nhìn tới khả năng các CTCK sẽ phải thành lập những trung tâm đào tạo chuyên biệt, tương tự như các ngân hàng thương mại và một số công ty bảo hiểm lớn hiện nay. Nhưng có một lo ngại là vấn đề đạo đức của người hành nghề, một điểm còn nhiều bức xúc trong thời gian qua.

Và trong định hướng thứ tư này, ngoài nghiệp vụ, kinh nghiệm còn là yêu cầu bồi dưỡng và nâng cao đạo đức của nguồn nhân lực, bản thân lãnh đạo các CTCK cũng là đối tượng của yêu cầu này.

TTCK đang phát triển và dự báo sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tới, tạo thêm cơ hội cho các thành viên. Tuy nhiên, theo lãnh đạo của UBCKNN, thời điểm thực hiện các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang gần kề, các CTCK nước ngoài sắp nhập cuộc, theo đó các thành viên trong nước phải nỗ lực nâng cao sức mạnh của mình với những định hướng nói trên.

UBCKNN cũng đang xem xét lại quy trình cấp phép mới theo hướng thuận lợi hơn cho các đề án nhưng vẫn đảm bảo những yêu cầu đặt ra trong quy chế hiện hành.

Theo VNE

Wednesday, July 4, 2007

Nguy cơ bong bóng?

Ngày 04/07/2007, 13:31
Nguy cơ bong bóng?
Theo thống kê riêng, trong số 107 Cty đang niêm yết trên TTGDCK HCM thì chỉ có 5 Cty không đầu tư tài chính là CYC, MCP, SAF, VGP và VPK. Còn lại 102 Cty đang niêm yết khác, giá trị của khoản đầu tư tài chính được ghi sổ dao động từ vài chục triệu tới vài tỉ đồng, thậm chỉ cả nghìn tỉ đồng.

Sức hút lợi nhuận

Đối với nhiều Cty, nguồn tiền được sử dụng để đầu tư tài chính ngắn hạn như mua CP hay trái phiếu đang niêm yết là từ nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi. Nhờ vậy DN có thể đảm bảo được khả năng sinh lời của nguồn vốn, không bị ứ đọng vốn.

Khá nhiều Cty rất thành công trong hoạt động đầu tư tài chính và nguồn tiền thu được từ hoạt động này đóng góp đáng kể vào lợi nhuận. Những Cty này thậm chí đã phát triển thêm một lĩnh vực kinh doanh mới là đầu tư tài chính.

Chẳng hạn với REE Corp, đầu tư tài chính trở thành một lĩnh vực then chốt cùng với đầu tư bất động sản. Tính đến ngày 31.3.2007, giá trị sổ sách của các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của REE là 1.312 tỉ đồng, trong đó đầu tư vào CK ngắn hạn là 503 tỉ, dự phòng giảm giá CK 5 tỉ và tiền gửi có kỳ hạn là 814 tỉ.

Giá trị sổ sách của các khoản đầu tư tài chính dài hạn là 408 tỉ đồng. Năm 2006, lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính của REE Corp. đạt khoảng 150 tỉ đồng. Trong quý I/2007, lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính của REE cũng đạt 125 tỉ đồng.

Theo tổng kết của người viết thì có 3 cách thức mà các Cty hay sử dụng để đầu tư tài chính: Xây dựng một phòng, ban chuyên trách phụ trách về việc đầu tư tài chính; liên kết với một Cty khác để đầu tư tài chính và thành lập một Cty con, Cty liên kết để chuyên đầu tư tài chính.

Cách thức thứ nhất và thứ hai thích hợp cho các Cty nhỏ và vừa bởi vì nguồn vốn của các Cty này không lớn, thêm vào đó là các Cty này không có được những lợi thế và các chuyên gia tài chính - những người am hiểu lĩnh vực tài chính để có thể hỗ trợ cho hoạt động đầu tư của mình. Còn cách thức thứ ba là cách thức khá phổ biến hiện nay mà các Cty lớn, các tập đoàn đang áp dụng.

Bong bóng đầu tư lẫn nhau?

Hiện nay, có nhiều Cty tăng vốn điều lệ, huy động vốn từ các cổ đông, một phần nguồn vốn thu được để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, phần còn lại đem đi đầu tư tài chính. Ngoài ra, cũng có những Cty từng vay vốn NH, chủ yếu là vay ngắn hạn để đi đầu tư tài chính trong khi vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đang thiếu trầm trọng.

Việc đầu tư lẫn nhau có thể tạo nên một sợi dây liên kết tác động đến giá CP của mỗi Cty. Chẳng hạn như việc đầu tư lẫn nhau của REE Corp và Sacombank. Cả 2 Cty này đều cùng đầu tư tài chính lẫn nhau trong đó, REE nắm giữ khoảng 11 triệu STB.

Vì vậy, khi giá CP Sacombank bắt đầu tăng mạnh từ hơn 60.000 đồng/CP lên tới 100.000 đồng/CP và tiếp tục tăng tới 160.000 đồng/CP khiến cho giá trị khoản mục đầu tư tài chính vào Sacombank của REE tăng trưởng tương ứng. Điều này cũng góp phần làm tăng giá CP của REE.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp DN "mải" đầu tư tài chính mà hoạt động sản xuất kinh doanh chính ít được chú trọng, nguồn vốn sử dụng kém hiệu quả. Mặt khác rủi ro phi hệ thống từ một Cty, một ngành có thể tác động đến các Cty khác đầu tư vào Cty đó hoặc các Cty thuộc các ngành khác đầu tư vào ngành đó. Giá trị CP của các Cty này có thể sụt giảm nhanh chóng do đã đầu tư kém hiệu quả. Rủi ro phi hệ thống có thể trở thành rủi ro hệ thống tác động tới các Cty thuộc các ngành và lĩnh vực khác nhau.

Với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trên 8%/năm cùng với sự chuyên nghiệp của các tổ chức đầu tư, các nhà đầu tư và những nguồn hàng mới có chất lượng cao sắp được IPO trong thời gian tới thì vẫn lôi kéo được nhiều Cty tham gia vào công việc mua bán CP.

Tuy nhiên, khi cổ đông chọn lựa đầu tư vào một Cty nào họ xét Cty đó trên ngành nghề đang hoạt động. Nếu ban lãnh đạo các Cty có dấu hiệu quá chú trọng vào việc mua bán CK, liệu có khiến cho cổ đông của họ băn khoăn, và liệu đây có phải là biểu hiện của tính phong trào?

Theo LĐ

Sẽ thành lập Ban giám sát thị trường chứng khoán

Ngày 04/07/2007, 12:52
Sẽ thành lập Ban giám sát thị trường chứng khoán
Ông Vũ Bằng-Chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước cho biết, Uỷ ban đã trình Chính phủ đề án thành lập Ban giám sát thị trường.

Theo đó, Ban giám sát sẽ phối hợp chặt chẽ với các trung tâm giao dịch chứng khoán tạo thành một hệ thống giám sát liên tục. Đồng thời, Ban giám sát sẽ gắn kết chặt chẽ với hệ thống thanh tra, kết quả giám sát sẽ là cơ sở quan trọng để thanh tra thực hiện việc cưỡng chế các sai phạm.

Ông Bằng cho hay, Ban lãnh đạo Uỷ ban chứng khoán cũng đang thảo luận thêm các chức năng nhiệm vụ cụ thể của Ban giám sát trong đó các chức năng chính sẽ là: giám sát các hành vi thao túng thị trường, giám sát hệ thống tin học...

Ban giám sát thị trường sẽ là đơn vị kiểm tra chuyên sâu, kịp thời thanh kiểm tra và xử lý nhanh những hành vi thao túng thị trường.

Theo HNN

Tuesday, July 3, 2007

Đến lượt nhà đầu tư Mỹ

Ngày 04/07/2007, 10:11
Đến lượt nhà đầu tư Mỹ
(ĐTCK-online) Thị trường tài chính Việt Nam đang là mảnh đất tiềm năng, đầy màu mỡ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Rất nhiều tập đoàn tài chính đến từ Singapore, Đài Loan, Anh, Pháp, Hồng Kông, Mỹ... đã tìm đến các ngân hàng cổ phần Việt Nam để thương lượng mua bán cổ phần. Thậm chí, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sau khi đặt bút ký mua 10% cổ phần của ngân hàng trong nước, lại tiếp tục đàm phán để tìm cơ hội nâng tỷ lệ sở hữu khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép. Đáng chú ý, làn sóng của các nhà đầu tư Mỹ đổ bộ vào thị trường tài chính Việt Nam được dự báo sẽ gia tăng mạnh trong tương lai gần.

Các ngân hàng trở về từ Mỹ (trong chuyến tháp tùng Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết) cho biết, nhiều nhà đầu tư Mỹ đang quan tâm đặc biệt đến thị trường tài chính Việt Nam. Theo ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc DongA Bank, tất cả 5 đối tác mà DongA Bank gặp gỡ trong thời gian vừa qua, đều có ý muốn hợp tác với DongA Bank nói riêng và các ngân hàng Việt Nam nói chung. Trong đó, các ngân hàng cổ phần chưa có sự góp mặt của nhà đầu tư ngoại thông qua việc mua bán cổ phần, càng được nhà đầu tư Mỹ quan tâm nhiều hơn. Đối với họ, chi phí để mua lại cổ phần vẫn cao hơn thành lập ngân hàng con 100% vốn ngoại, bởi họ là những nhà đầu tư xuyên quốc gia.

Ông Bình cho rằng, thị trường tài chính Việt Nam hấp dẫn nhà đầu tư Mỹ, vì có lượng dân số trẻ và đời sống đang ngày càng được nâng cao. Trong khi đó, số lượng người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính - ngân hàng vẫn còn quá hạn chế, chỉ chiếm khoảng trên dưới 10% tổng số dân.

Trở về từ Mỹ sau chuyến đi trên, ông Vũ Văn Tiền, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng An Bình (ABBANK) cũng cho hay, có thể nói, trong tất cả các lĩnh vực, tài chính - ngân hàng được nhà đầu tư Mỹ quan tâm nhiều nhất. Do vậy, trong các cuộc trao đổi, họ luôn nhắc đến việc làm thế nào để tìm hiểu thêm nhiều thông tin từ thị trường tài chính, chứng khoán Việt Nam. Một số nhà đầu tư Mỹ đã đặt thẳng vấn đề mua lại cổ phần của ngân hàng trong nước và mong muốn lộ trình mở cửa đối với lĩnh vực tài chính Việt Nam sẽ tạo thêm nhiều điều kiện tốt cho việc đầu tư trong tương lai.

Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, sẽ có một làn sóng đầu tư của Mỹ vào thị trường Việt Nam nói chung và lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng. Tập đoàn tài chính CitiGroup cho rằng, Việt Nam có tương lai phát triển hết sức tươi sáng, nên Citigroup luôn dành sự hỗ trợ mạnh mẽ nhất cho thị trường này. Trong chuyến tháp tùng Chủ tịch nước vừa qua, Ngân hàng Agribank đã ký tổng cộng 5 thỏa thuận cùng đối tác Mỹ, với giá trị lên tới 1,5 tỷ USD.

Một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư Mỹ quan tâm đến thị trường tài chính Việt Nam là họ nhìn thấy được tiềm năng của mảnh đất dịch vụ tài chính nơi đây. Hiện ở Mỹ, người tiêu dùng luôn sử dụng séc để trả tiền trong lúc mua hàng hóa và có thể sau 3 - 4 ngày là thanh toán. Còn Việt Nam hiện vẫn chưa làm được việc này. Theo đánh giá của các nhà đầu tư Mỹ, thị trường tài chính Việt Nam vẫn có khá nhiều tiềm năng còn bỏ ngỏ. Không chỉ có các nhà đầu tư Mỹ, mà ngay cả những ngân hàng đã có thâm niên hoạt động tại thị trường Việt Nam cũng đang nhắm đến và tranh thủ chiếm lĩnh thị phần trong lĩnh vực tài chính, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Chẳng hạn Standard Chartered vừa chính thức khai trương ngân hàng bán lẻ đầu tiên tại TP.HCM và dự kiến sẽ mở văn phòng tại Hà Nội vào đầu năm tới. Ngân hàng ANZ, HSBC... đẩy mạnh các dịch vụ tín dụng tiêu dùng như: cho vay mua nhà, xe ôtô, đồng thời “bơm” mạnh vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa...

Bên cạnh đó, hiện nhiều nhà đầu tư Mỹ đã trao đổi trực tiếp với các ngân hàng cổ phần trong nước. Đơn cử như Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank) đã có buổi gặp gỡ với các đối tác tài chính quốc tế tại Tòa Thị chính San Francisco (Mỹ). Ông Mark Chester Chandler, Giám đốc Thương mại Quốc tế của Tòa Thị chính San Francisco cho biết, sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu tìm kiếm cơ hội đầu tư, tìm kiếm các đối tác kinh doanh nước ngoài. Một số lãnh đạo các ngân hàng Mỹ cũng hứa sẽ giới thiệu đối tác cho Southern Bank, và giới thiệu để Southern Bank trở thành ngân hàng thuộc nhóm 500 ngân hàng lớn nhất Mỹ thông qua việc liên kết.

Vân Linh

Thống đốc NHNN trả lời phỏng vấn

Ngày 04/07/2007, 12:53
Thống đốc NHNN trả lời phỏng vấn
Sau khi có nhiều phản ứng Chỉ thị 03 về khống chế dư nợ cho vay chứng khoán của hệ thống ngân hàng, mới đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có công văn số 7021 cho phép các ngân hàng thương mại kéo dài thời gian thu hồi nợ và giảm dư nợ cho vay chứng khoán xuống dưới 3% đến ngày 31-12-2007.

Thống đốc NHNN Lê Đức Thúy nói: “Các khoản vay cầm cố chứng khoán thường là ngắn hạn, nên quy định lộ trình như vậy sẽ không ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng, cũng như hành xử của người đi vay”

* PV: Thưa Thống đốc, tại sao NHNN lại ban hành chỉ thị khống chế việc cho vay chứng khoán?

* Ông LÊ ĐỨC THÚY: Việt Nam là quốc gia duy nhất cho phép ngân hàng cho vay cầm cố chứng khoán để đi đầu tư chứng khoán; trên thế giới không có nước nào như vậy. Khuyến cáo của các tổ chức tài chính quốc tế cũng cho rằng, nên hạn chế tối đa sự dính dáng trực tiếp của ngân hàng vào đầu tư chứng khoán theo cách cầm cố chứng khoán, như là một vòng tiếp nối liên tục.

Điều gì sẽ xảy ra nếu cổ phiếu của người vay không bán được, như cổ phiếu trên OTC hiện nay là hàng trăm cổ phiếu bị “đóng băng”, muốn bán không bán cho ai được? Lúc đó, ngân hàng cho vay nhiều, dự phòng không đủ rủi ro có thể bị sụp đổ. Và nguy hiểm hơn, có thể kéo theo sự sụp đổ cả một hệ thống. Cho nên, với trách nhiệm quản lý nhà nước về sự an toàn của hệ thống ngân hàng, chúng tôi phải thấy trước những rủi ro tiềm ẩn và có biện pháp ngăn chặn.

* Thưa Thống đốc, tỷ lệ 3% được NHNN đưa ra căn cứ trên cơ sở nào?

* Theo thông tin mà NHNN kiểm tra trước khi ban hành Chỉ thị 03 thì chỉ có 12 ngân hàng là có dư nợ cho vay chứng khoán cao hơn 3% tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này tính bình quân chung của các ngân hàng cổ phần là 7%, còn của các ngân hàng quốc doanh là rất nhỏ. Các ngân hàng nước ngoài không dính dáng gì đến hoạt động này. Như vậy, tỷ lệ 3% là căn cứ vào thực tế hiện nay có thể chấp nhận được để kiểm soát hoạt động cho vay này. Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia cũng đã phải họp để đánh giá xem chủ trương đó đúng hay không đúng, có tác động gì.

Tôi xin khẳng định NHNN đưa ra chủ trương đó là căn cứ vào những chỉ đạo lâu nay của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm soát rất chặt chẽ luồng vốn tín dụng từ các ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán, để bảo đảm thị trường này phát triển bền vững.

* Thưa Thống đốc, phải chăng cho vay chứng khoán là rủi ro hơn các loại cho vay khác nên mới bị khống chế?

* Tôi không cho rằng cho vay chứng khoán là rủi ro nhất. Nhưng loại cho vay này tiềm ẩn rủi ro không nhỏ, và có tính hệ thống. Sau này, nếu phát hiện ra loại cho vay nào tiềm ẩn rủi ro mang tính hệ thống thì nhất định cũng phải có biện pháp can thiệp.

* Hiện nay, nhiều người lao động lo ngại có ít cơ hội mua được cổ phần khi doanh nghiệp của mình cổ phần hóa vì không vay được tiền ngân hàng?

* NHNN cấm việc cho vay vượt quá tỷ lệ cho phép bằng cầm cố cổ phiếu đầu tư kinh doanh chứng khoán, còn nếu mua chứng khoán nhưng đảm bảo bằng tài sản, hoặc chữ tín thì chúng tôi không cấm. Bên cạnh đó, chủ trương cho cán bộ công nhân viên mua cổ phần không đồng nghĩa với việc ngân hàng phải cho vay để mua cổ phần. Trong công văn 7021 hướng dẫn Chỉ thị 03, có 3 đối tượng không được xác định là “khách hàng” khi xác định dư nợ cho vay chứng khoán, gồm: công ty chứng khoán; các tổ chức tín dụng; người lao động trong công ty nhà nước mua cổ phần lần đầu khi chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.

* Xin cảm ơn Thống đốc!

Bà DƯƠNG THU HƯƠNG, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Ngân sách của Quốc hội

Điều chỉnh chính sách phù hợp theo diễn biến thị trường

Chỉ thị của NHNN quy định cho vay chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ là một trong những biện pháp để tạo ra sự ổn định, lành mạnh cho thị trường chứng khoán. Vay tiền ngân hàng để đầu tư chứng khoán là rất rủi ro, cho nên nếu việc cho vay lớn quá thì khó đảm bảo tính ổn định của lĩnh vực rất nhạy cảm này. Nếu chúng ta đi sâu vào phân tích những số liệu về dư nợ của các chứng khoán thì sẽ thấy được tính “mong manh” của nó.

Hơn nữa, tôi tin rằng chỉ thị của NHNN đã được tính toán dựa trên những số liệu thống kê cần thiết, ví như số liệu thống kê về dòng tiền từ ngân hàng “chảy” sang thị trường chứng khoán.

Chúng ta không nên loại trừ việc có những ngân hàng cổ phần chạy theo lợi nhuận, cứ cho vay được là cho vay. Rõ ràng trong khi các ngân hàng quốc doanh chỉ có tốc độ tăng trưởng tín dụng trên dưới 20%, thì các ngân hàng cổ phần lại có tốc độ tăng trưởng tín dụng lớn hơn nhiều.

Từ thực tế như vậy, cần phải có hành động gì đó để đảm bảo an toàn cho thị trường tiền tệ cũng như thị trường vốn trong dài hạn, hơn nữa đó phải là một biện pháp kịp thời chứ không phải lúc “bùng” lên vấn đề thì mới đề ra biện pháp.

Dĩ nhiên khi đã có biện pháp, NHNN nên theo dõi xem diễn biến thị trường thế nào, xem diễn biến nhu cầu xã hội ra làm sao, để điều chỉnh chính sách cho phù hợp.

Theo SGGP

Đổi đất lấy cổ phần hóa?

Ngày 04/07/2007, 11:18
Đổi đất lấy cổ phần hóa?
Một vấn đề rất nóng hổi hiện nay là việc đưa đất (kể cả đất thuê) vào xác định giá trị doanh nghiệp.

Chỉ vì không tính đất thuê vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa nên cổ phiếu một doanh nghiệp nhà nước chưa niêm yết đã ngất ngưởng 250.000 đồng/cổ phiếu, mặc dù lãi ròng 6 tháng của doanh nghiệp này chỉ 1,4 tỷ đồng trên doanh thu gần 60 tỷ!

Những tưởng bất cập này sẽ được sửa đổi triệt để trong Nghị định 109/CP ban hành mới đây nhưng thực tế lại khác. Phải chăng, đất là thứ trao đổi để tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước nhanh hơn?

Khi phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, nhìn vào báo cáo kết quả kinh doanh 6 tháng đầu 2006 của Công ty Cổ phần Khách sạn K.L, nhà đầu tư thật ngán ngẩm: mặc dù doanh thu 59,527 tỷ nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ 1,44 tỷ; lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh vỏn vẹn 2,4%; nợ phải trả lên tới 36 tỷ và nợ phải thu là 9,8 tỷ.

Cổ phiếu tăng giá nhờ đất

Đã thế, chuyện “kiện tụng” ở doanh nghiệp này như cơm bữa. Mỗi đơn kiện thường tới vài ba chục nội dung. Năm nào cũng có kiện nhưng “xôm” nhất là vào thời gian doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa, nhân lực dư dôi bị tinh giản nhiều và vị giám đốc luôn phải “bận bịu” với hết thanh tra lại đến công an.

Mặc dù các nhà đầu tư đều biết lợi nhuận của doanh nghiệp này kém cỏi, nhân lực không tốt, môi trường làm việc bất ổn nhưng trong kỳ đấu giá lần đầu vào cuối quý I/2006, mức giá bình quân gia quyền của đấu giá vọt tới 290 nghìn đồng/cổ phiếu.

Ngay cả tại thời điểm bảng giá giao dịch chứng khoán trực tuyến thường xuyên “đỏ lòm”, thi thoảng mới có một bữa lốm đốm “xanh” thì cổ phiếu của doanh nghiệp này vẫn giao dịch ở mức giá 250 nghìn đồng/cổ phiếu, thậm chí có người còn rao tới 330 nghìn đồng/cổ phiếu.

Vì sao lại như vậy? Đơn giản, khi cổ phần hóa, doanh nghiệp nói trên sở hữu tổng diện tích đất thuê của nhà nước là 34.557 m2 và không phải tính vào giá trị doanh nghiệp theo tinh thần Nghị định 187/CP.

Điều đáng nói, toàn bộ lô đất này trải dài cả trăm mét mặt phố Đào Duy Anh, sát nách “con đường đắt nhất thế giới” Kim Liên - Ô Chợ Dừa. Với giá tiền thuê đất theo quy định của thành phố Hà Nội, mỗi năm, doanh nghiệp này chỉ phải trả 80 nghìn đồng cho mỗi mét vuông, tương đương 2,7 tỷ/năm, trong vòng 30 - 50 năm!

Một trường hợp khác, đó là Công ty Xuất nhập khẩu Intimex (Bộ Thương mại). Mặc dù các chỉ tiêu khả năng sinh lợi của Intimex rất thấp (hệ số lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần: - 0,75%; hệ số lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu: -21,87%; hệ số lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản: - 1,89% nhưng nhờ sở hữu 2,7 triệu m2 đất khắp cả nước, trong đó có những lô nằm ngay trung tâm Hà Nội như 2.871 m2 với 100 mét mặt tiền ở số 22- 23 Lê Thái Tổ, 1.800 m2 tại Láng Hạ, 1.100 m2 tại 96 Trần Hưng Đạo và tất cả đều được thuê dài hạn trong vòng nửa thế kỷ nên mức giá bình quân đấu giá gấp tới 16 lần mệnh giá.

Một nhóm “đại gia” sau khi làm giá thành công trong đợt đấu giá cổ phiếu Intimex đã đón sẵn mua “lúa non” cổ phiếu của cán bộ công nhân viên (bởi người lao động không thể đủ tiền để mua với mức giá thấp hơn 40% so với bình quân của đấu giá), chiếm giữ thật nhiều cổ phiếu để có quyền chi phối những lô đất nói trên.

Có đất, cổ phần hóa mới nhanh?

Theo dõi diễn biến cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, một vấn đề rất nóng hổi hiện nay là việc đưa đất (kể cả đất thuê) vào xác định giá trị doanh nghiệp.

Tại khoản 1, điểm a của Nghị định 187/CP có quy định: “Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa lựa chọn hình thức thuê đất thì không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa”.

Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam lý giải: “Thuê một tài sản thì không thể đem tài sản đó vào giá trị doanh nghiệp được”. Nhìn vào logic thông thường và các quy định hiện hành của luật pháp, đương nhiên là vậy. Nhưng thử nghĩ, dù là đất thuê nhưng không tính vào giá trị doanh nghiệp thì giá trị của chúng chuyển dịch đi đâu trong hàng chục năm liền?

Những bất cập này tồn tại trong một thời gian dài và người ta chờ mong chúng được sửa đổi trong Nghị định 109/CP ban hành ngày 26/6/2007 nhưng thực tế lại khác. Điều 30 Nghị định 109/CP quy định: “a) Đối với những doanh nghiệp trả tiền thuê đất hàng năm thì không tính tiền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp; b) Đối với những doanh nghiệp trả tiền thuê đất một lần cho toàn bộ thời gian thuê đất thì tính tiền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp”.

Trên thực tế, chẳng doanh nghiệp nào lại chọn hình thức thuê đất trả tiền một lần vì trả tiền thuê đất hàng năm có lợi hơn trả tiền thuê đất một lần.

Nhìn ở góc độ khác, chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung cho rằng: “Vấn đề ở chỗ là làm thế nào để giá đất doanh nghiệp thuê tiệm cận với giá thị trường. Điều này sẽ giúp cho quyền lợi của Nhà nước không bị thiệt”. Nhưng làm sao có thể đưa giá thị trường vào đây khi việc áp giá đất thuê theo Nghị định 109/CP lại do “ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố”? Bởi muốn có thị trường thì phải đem ra đấu giá. Ai sẽ đưa đất của Công ty Cổ phần Khách sạn K.L, của Intimex và của hàng loạt tập đoàn, tổng công ty sẽ IPO tới đây ra để đấu giá?

Có thể thấy, câu chuyện đưa giá đất (dù là đất thuê) làm căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước khi cổ phần hóa có vẻ như không bao giờ xảy ra và như thể đó là cái giá phải trả cho tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Bởi lẽ nếu tính giá trị đất thuê làm căn cứ định giá doanh nghiệp, tỷ lệ phần vốn Nhà nước sẽ cao và khó cổ phần hóa.

Một luật sư danh tiếng từng tham gia soạn thảo rất nhiều văn bản luật và dưới luật cho rằng “bổ củi, phải có vụn”. Nhưng những gì đang diễn ra cho thấy, một lượng tài sản khổng lồ là giá trị đất đai của nhà nước đã bị mất đi trong hàng chục năm liền và đó khó có thể coi là “vụn”!

Điều này càng rõ hơn khi giá cho thuê văn phòng khu vực nội thành Hà Nội, Tp.HCM đang dao động từ 25 - 30 USD/tháng, trong khi một mét vuông đất mặt phố Đào Duy Anh chỉ phải trả 80 nghìn đồng/năm suốt nhiều thập kỷ.

Cũng theo kế hoạch, nhà nước sẽ tiến hành cổ phần hóa hàng loạt tập đoàn, tổng công ty và giá trị hàng nghìn hécta đất tại Hà Nội, Tp.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng.. trong hàng chục năm liền sẽ tiếp tục chảy vào túi các cổ đông.

Phải chăng, sự mất mát này còn đồng hành với quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước?

Theo VNE

Những trận “dội bom”

Ngày 03/07/2007, 12:08
Những trận “dội bom”
Nhà đầu tư mong muốn các cơ quan quản lý phải lấy đại cục làm trọng
(ĐTCK-online) TTCK Việt Nam non trẻ vốn rất nhạy cảm lại thường phải chịu những trận "dội bom". Đó là những quyết định không đúng lúc, đúng chỗ từ cơ quan quản lý, làm cho thị trường luôn chao đảo, mà muốn phát triển bình thường thì cũng rất khó khăn.

Vào năm 2001, thị trường đang hừng hực khí thế, hàng thiếu trong khi nhu cầu mua lại rất cao, lẽ ra cơ quan quản lý phải tìm cách đưa thêm hàng vào (chắc không khó và lại còn rất khả thi) thì lại “đánh đùng” một cái, cơ quan quản lý thị trường ra quyết định một cách cơ học: mỗi lệnh chỉ được mua tối đa 2.000 cổ phiếu! Thế là thị trường đổ nhào như xuống dốc mất phanh, VN-Index từ trên 500 điểm xuống còn hơn 130 điểm. Nhà đầu tư “kẻ mất người còn”, “kẻ cười, người khóc”, chạy tan tác.

Vào quí III/2006, “đùng” một cái nữa, cơ quan quản lý ra quyết định xoá bỏ thuế ưu đãi dành cho doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán, kể từ ngày 1/1/2007. Thế là các doanh nghiệp ào ào, vắt chân lên cổ cho kịp thời gian nộp đơn đăng ký lên sàn. Trên bàn, từng chồng, từng chồng hồ sơ chờ xét duyệt. Không ai biết chất lượng của sự vội vàng ấy ra sao, nhưng người ta có quyền nghi ngờ rằng, để tiết kiệm được mấy trăm tỷ đồng tiền thuế, thì các doanh nghiệp dù có chi ra vài tỷ đồng, thậm chí hàng chục tỷ đồng để cho kịp niêm yết cũng còn lãi chán (!?). Giờ thì sao? Suốt 6 tháng đầu năm nay, chỉ có thêm một doanh nghiệp lên sàn. Còn từ nay đến sang năm, một lượng khổng lồ vốn của các đại gia được đưa vào TTCK. Thật là lúc no dồn, lúc đói góp. Thị trường vì thế mà có phần méo mó, khó thể phát triển bình thường được.

Giờ thì đến lượt Ngân hàng Nhà nước “đánh đùng một cái”. Chỉ thị 03 của Ngân hàng Nhà nước được ban hành, buộc các ngân hàng thương mại chỉ được cho vay kinh doanh chứng khoán dưới 3% tổng dư nợ. Chỉ thị này đã làm biết bao nhà đầu tư trên TTCK và các ngân hàng thương mại gặp khó, vì họ chưa được chuẩn bị gì cả. Thậm chí, có ngân hàng đã cho vay cao hơn tỷ lệ 3%, giờ cuống cuồng lo việc thu hồi lại vốn liệu có kịp trước thời điểm thực hiện là cuối năm nay. Điều này khiến nhà đầu tư chứng khoán không vay được tiền, mặt khác nhà đầu tư có thể phải bán cổ phiếu sớm hơn kế hoạch. Thật dễ hiểu, không có tiền thì lấy gì mà buôn. Dòng tiền sẽ chảy ngược lại ngân hàng và thế là TTCK cung có xu hướng vượt cầu. Thị trường vừa mới hồi phục lại bị choáng, chao đi đảo lại quanh mức 1.000 điểm, không sao bứt lên được. Chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến các đợt IPO sắp tới.

Ngân hàng Nhà nước cho rằng, hầu hết các ngân hàng trên thế giới không cho vay kinh doanh chứng khoán. Đã biết vậy thì Ngân hàng Nhà nước ngay từ đầu sao không có hướng dẫn, đến nay “cứ thả rồi mới bắt” để tỏ “uy quyền” của mình thì tội cho các ngân hàng và nhà đầu tư quá.

Ở đây, dễ nhận thấy rằng, có sự non kém của cơ quan điều hành. Quyền lợi của nhà đầu tư chưa được coi trọng có lẽ cũng là do có sự khác biệt quyền lợi của các bên. Nếu chỉ vì mục đích cầu toàn cho ngành mình, thì Chỉ thị 03 đã làm được điều này. Nhưng nhà đầu tư mong muốn các cơ quan quản lý phải lấy đại cục làm trọng.

Tuy vậy, nhà đầu tư cũng được an ủi và động viên đôi phần vì ở tầng tối cao - Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị phải dãn việc tiến hành IPO của các “đại gia” trong thời gian tới, tránh ảnh hưởng đến thị trường. Bởi nếu không, không những nhà đầu tư bị thiệt hại mà nguồn thu cho ngân sách từ các đợt đấu giá này mang lại cũng bị ảnh hưởng không nhỏ.

Thế còn những cái “đùng” khác thì sao?

Quang Hoan

Thị trường tiếp tục sụt giảm mạnh - 2nd day

Ngày 03/07/2007, 14:21
Thị trường tiếp tục sụt giảm mạnh
Không còn giảm từ từ như 5 tuần trước, hầu như tất cả cổ phiếu lớn nhỏ trên sàn chứng khoán TP.HCM hôm nay (3/7) giảm mạnh phiên thứ 2 liên tiếp và chưa có dấu hiệu nào cho thấy đợt sụt giảm này chấm dứt trong một vài phiên giao dịch tới.

Kết thúc phiên giao dịch sáng 3/7, chỉ số VN-Index giảm 16,87 điểm (tương đương giảm 1,7%) xuống chỉ còn 977,3 điểm - mức thấp điểm nhất kể từ ngày 7/5 - với tổng cộng 83 mã cổ phiếu giảm giá (trong tổng số 107 mã), chỉ có 12 mã cổ phiếu tăng giá và 12 mã đứng giá. Hai chứng chỉ quỹ VF1 và BF1 đồng loạt giảm mạnh.

Tổng khối lượng giao dịch sáng nay chỉ tăng chút ít (tăng 0,15%) lên 5.479.910 cổ phiếu, trong khi đó giá trị giao dịch giảm 0,95% xuống 571,97 tỷ đồng.

Mặc dầu giá đa số cổ phiếu giảm mạnh như vậy, nhưng khối lượng và giá trị cũng không được cải thiện - một dấu hiệu cho thấy thị trường chưa thể hồi phục mà còn có thể tiếp tục giảm tiếp.

Trong phiên giao dịch sáng nay, cũng có thêm 913.280 chứng chỉ quỹ VF1 và BF1 được giao dịch, trị giá gần 22 tỷ đồng - tăng gần gấp đôi so với hôm qua do giá của hai chứng khoán này giảm rất mạnh xuống tương ứng chỉ còn 29.900 đồng/ccq và 11.500 đồng/ccq (giảm 1.100 đồng và 300 đồng).

Cổ phiếu SHC (của Công ty Cổ Phần Hàng Hải Sài Gòn) giảm mạnh nhất với mức giảm 7,06% (tương đương giảm 2.400 đồng/cp) xuống 31.600 đồng/cp do hôm nay là ngày giao dịch không hưởng quyền cho việc trả cổ tức đợt 2/2006 với tỷ lệ 8% (tương đương 800 đồng/cp), ngày thanh toán là 23/07.

Các cổ phiếu có mức giảm giá mạnh tiếp theo là DNP (của Nhựa xây dựng Đồng Nai) và HMC (của Công ty Cổ phần Kim khí TP.HCM), cùng một mức giảm sàn là 5% xuống 66.500 đồng/cp và 43.700 đồng/cp.

Trừ FPT, các cổ phiếu blue-chips trên sàn TP.HCM cũng đồng loạt giảm giá. Cụ thể, STB (Ngân hàng Sacombank) giảm 3,94%; PPC (Nhiệt điện Phả Lại) giảm 3,25%; TDH (Nhà Thủ Đức) giảm 1,03%, GMD (Công ty Cổ phần Ðại lý liên hiệp vận chuyển TP.HCM) giảm 2,11%, VNM (Vinamilk) giảm 2,29%; REE (Công ty cổ phần Cơ Điện Lạnh) giảm 2,08%; KDC (Bánh kẹo Kinh Đô) giảm 2,61%; DHG (Dược Hậu Giang) giảm 4,83% và VSH (Thuỷ điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh) giảm 3,23%.

Trong số các cổ phiếu giảm giá, PPC giảm xuống mức thấp kỷ lục kể từ khi lên sàn chứng khoán TP.HCM. Hôm nay, cổ phiếu này giảm 2.000 đồng xuống chỉ còn 59.500 đồng/cp so với mức giá 105.000 đồng/cp khi cổ phiếu này chuyển từ sàn Hà Nội lên sàn TP.HCM ngày 26/1/07.

Cổ phiếu GMC (May Sài Gòn) cũng giảm 1.400 đồng (tương đương giảm 3,38%) xuống mức thấp kỷ lục mới là 40.000 đồng/cp. Cổ phiếu GMC giảm giá có thể do xu hướng giảm chung của thị trường và do các nhà đầu tư lo ngại các doanh nghiệp dệt may chưa thể tiếp tục ký các hợp đồng xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ - một thị trường nhập khẩu lớn đối với hàng may mặc.

Cổ phiếu VIS (Thép Việt Ý) cũng giảm 1.500 đồng (tương đương giảm 4,76%) xuống mức thấp mới là 30.000 đồng/cp. Hôm qua (2/7), cổ phiếu Thép Việt Ý giao dịch không hưởng quyền phát hành thêm 5 triệu cổ phiếu (với tỷ lệ XR là 14% và 25:3), khiến giá giảm 14.500 đồng (-31,52%) xuống còn 31.500 đồng/cổ phiếu.

Trong khi đó, các cổ phiếu BHS (Đường Biên Hoà) và FMC (Thực phẩm Sao Ta) đứng giá ở mức thấp nhất từ trước tới nay, tương ứng là 40.000 đồng/cp và 59.000 đồng/cp.

Theo một hãng cung cấp thông tin chứng khoán, đa số các nhà đầu tư có mặt trên các sàn giao dịch của các công ty chứng khoán tại Hà Nội khu vực Láng Hạ như An Bình, SeaBank tiếp tục tăng cường đặt bán các cổ phiếu mình đang nắm giữ do lo ngại xu hướng đi xuống của TTCK tập trung còn tiếp diễn trong vài tuần tới. Nỗi lo này được nhen lên bắt đầu từ Thông tư 03 về hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán của Ngân hàng Nhà nước và các đợt đấu giá cổ phần với giá rất thấp gây ra làn sóng giảm giá trên cả 2 sàn và thị trường OTC vừa qua. Ngoài ra, đó còn là dự báo đen tối của Ngân hàng Hồng Kông - Thượng Hải (HSBC), theo đó, chỉ số VN-Index có thể xuống tới 900 điểm.

Theo VNN

Monday, July 2, 2007

Khốc liệt cuộc chiến giành thị phần

Ngày 03/07/2007, 11:41
Khốc liệt cuộc chiến giành thị phần
Nhiều nhà đầu tư cho rằng, đã đến lúc họ phải được xác định đúng nghĩa là "thượng đế"
(ĐTCK-online) VN-Index ở thế “giằng co” kéo dài khiến không ít nhà đầu tư nản lòng, một số đã bỏ thói quen “lên sàn” làm cho nhiều công ty chứng khoán (CTCK) lo lắng tới khoản doanh thu hàng tháng. Bên cạnh đó, với sự xuất hiện của nhiều CTCK mới, thị phần của các CTCK lại càng có nguy cơ bị thu hẹp. Một cuộc cạnh tranh thu hút khách hàng giữa các CTCK đang diễn ra.

Ngày 26/6/2007, CTCK Thủ Đô (CSC) chính thức mở thêm chi nhánh tại TP. HCM. Cùng với kế hoạch mở rộng hoạt động, Công ty cũng đưa ra mức phí ưu đãi dành cho nhà đầu tư. Theo đó, mức phí giao dịch giảm tới 80% đến hết ngày 31/8/2007. Mặc dù trước đây, một số CTCK đã thực hiện kế hoạch giảm phí cho khách hàng nhưng có thể nói, đây là “phát súng” tiên phong mang đầy tính cạnh tranh giữa các CTCK cũ và mới.

Bà Vương Thị Thanh Đan, Phó tổng giám đốc kiêm Giám đốc Chi nhánh CSC, cho biết việc quảng bá hình ảnh Công ty nhằm thu hút nhà đầu tư là một trong những mục tiêu quan trọng của đơn vị trong thời điểm hiện nay. Cơ sở để thực hiện chiến dịch quảng bá này là việc Công ty cung cấp đầy đủ các dịch vụ như đặt lệnh mua bán, cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán, nhận repo CP, thông báo kết quả giao dịch qua điện thoại, tra cứu thông tin tài khoản qua tin nhắn…

Cũng theo bà Đan, hiện Công ty kết hợp với Kênh truyền hình Info-TV thực hiện các chương trình giới thiệu, tư vấn đầu tư; phối hợp với các trung tâm đào tạo chứng khoán để phổ cập kiến thức cho nhà đầu tư. Đặc biệt, Công ty đã quảng bá hình ảnh trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng khác…

Tương tự CSC, CTCK Hải Phòng (Haseco) cũng quyết định hạ phí dịch vụ. Trong năm 2006, đơn vị này từng “nổi tiếng” bởi mức phí giao dịch đứng hàng thấp nhất, ngay cả khi nhà đầu tư đổ xô đi mở tài khoản. Theo Haseco, bắt đầu từ ngày 1/7, nhà đầu tư ở CTCK này chỉ phải chịu mức phí giao dịch duy nhất là 0,15%/tổng giá trị giao dịch.

Nhiều nhà đầu tư cho rằng, đã đến lúc họ phải được xác định đúng nghĩa là “thượng đế”. Cụm “gió đã đổi chiều” hoàn toàn thích ứng với những CTCK đã từng phân biệt đối xử với nhà đầu tư nhỏ lẻ, khi đưa ra mức tiền tối thiểu để đáp ứng yêu cầu mở tài khoản.

Giám đốc một CTCK tại TP.HCM xác nhận, việc công khai cạnh tranh của các CTCK mới bằng giảm phí giao dịch đã khiến nhiều đơn vị có thâm niêm hoạt động lo lắng, vì điều này dễ kích thích nhà đầu tư. Đáng nói là số lượng CTCK mới ra đời ngày càng nhiều khiến nguy cơ mất khách hàng tăng theo. Hiện có tới 50 bộ hồ sơ xin thành lập CTCK đã được gửi lên UBCKNN, điều này có thể đẩy số lượng CTCK vượt hơn con số 100. Cũng theo vị giám đốc này, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các CTCK sẽ diễn ra bởi TTCK Việt Nam đã qua giai đoạn bùng nổ, điều này không chỉ thể hiện ở tâm lý ái ngại của nhà đầu tư trong thời gian VN-Index điều chỉnh giảm, mà còn là việc hạn chế các nguồn vốn ngân hàng tham gia thị trường như Chỉ thị 03 (khống chế mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 3%/tổng dư nợ). Lợi thế của nhiều CTCK mới thành lập còn được xác định bởi số vốn mà những đơn vị này dành cho dịch vụ repo chứng khoán vẫn còn nhiều. Đây là hạn chế của các CTCK đã có nhiều khách hàng, trong khi lại là điều đặc biệt quan tâm của nhiều nhà đầu tư hiện nay.

Thực tế, hình thức giảm phí hay quảng bá hình ảnh của CTCK trên báo chí mới chỉ là bề nổi của cuộc cạnh tranh thu hút khách hàng. Bề chìm của “cuộc chiến” giữa các CTCK là việc củng cố đội ngũ cán bộ, nhân viên; hoàn thiện các dịch vụ hỗ trợ khách hàng; thu hút nhân tài bằng nhiều hình thức ưu đãi như bán CP, hưởng lương cao… Ngoài ra, nếu như Bộ phận nghiên cứu của CTCK Sài Gòn (SSI) đưa ra một bản phân tích độc lập về triển vọng của TTCK Việt Nam với tiêu đề “Góc nhìn của người trong cuộc” thì chỉ 1 tháng sau, CTCK Thăng Long cũng đưa ra một bản phân tích về TTCK. Theo giới quan sát, hiện nhiều bản phân tích tương tự đang được các CTCK triển khai và coi đây là tiêu chí để đánh giá đẳng cấp trên thị trường. Các CTCK quy mô nhỏ hơn cũng không chịu lép vế khi hàng ngày cung cấp cho khách hàng bản tin với đầy đủ thông tin, diễn biến và dự báo thị trường.

Có thể nói, sự cạnh tranh của các CTCK có thể mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư nói riêng và TTCK nói chung. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có tính hai mặt. Ví như nhà đầu tư có thể “bội thực” thông tin và dự báo của các CTCK, thậm chí kinh doanh thua lỗ vì thực hiện theo những dự báo này. Hay như việc CTCK cùng “chạy đua” để được thực hiện nghiệp vụ repo với ngân hàng còn hạn mức cho vay chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh.

Tuấn Dũng

Những bất ổn đằng sau việc chia, thưởng CP

Ngày 03/07/2007, 11:29
Những bất ổn đằng sau việc chia, thưởng CP
Chính sách chi trả cổ tức bằng cổ phiếu ngày càng gia tăng áp lực tài chính cho doanh nghiệp
(ĐTCK-online) Có một thực tế trên TTCK Việt Nam thời gian qua là, các nhà đầu tư hăm hở đón nhận những chính sách phát hành cổ phiếu thưởng, chi trả cổ tức bằng phát hành thêm cổ phiếu của các công ty. Đâu là những bất ổn đằng sau chính sách đó?

Mù mờ giá trị doanh nghiệp

Một thuật ngữ khi nói đến các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam thường được ám chỉ là “bầy đàn”. Một phóng viên nước ngoài đã từng nhận xét: “Những nhà đầu tư non nớt của Việt Nam có thể chẳng có chút kiến thức nào. Họ không hề có khái niệm đối với hai từ “bong bóng” và “đổ vỡ”. Nhưng tôi tin rằng, khi ngày càng có nhiều người giàu lên nhờ chứng khoán thì tiếng Việt cũng sẽ được “làm giàu” với hai từ này”. Tờ The Financial Times của Anh trích lời ông Jonathan Pincus - Kinh tế gia của Liên hiệp quốc tại Hà Nội: “Tất cả những ồn ào ở Hà Nội gần đây đều xoay quanh chuyện đầu tư vào TTCK. Tôi không biết có bao nhiêu người hiểu cái gì là giá trị của công ty, nhưng tất cả vẫn đang tranh nhau mua bán những tờ giấy (CP - phóng viên)”... Khi mà có nhiều tờ giấy hơn và giá trị của các tờ giấy giảm đi thì các nhà đầu tư Việt Nam sẽ nhận ra được vấn đề. Bài học không chỉ dừng lại ở đó. Khi thị trường điều chỉnh, theo thời gian sẽ có sự phân hóa mạnh những cổ phiếu tốt và những cổ phiếu “giá rẻ”, thị trường OTC cũng trở nên vắng lạnh, thì các nhà đầu tư sẽ nhận ra đâu là yếu tố tạo nên giá trị của các tờ giấy. Nhưng có những “trò chơi” mà các nhà quản lý doanh nghiệp đang làm mờ mắt đa số nhà đầu tư Việt Nam.

Phát hành cổ phiếu thưởng

Trong chừng mực nào đó, việc phát hành cổ phiếu thưởng giống như doanh nghiệp chia nhỏ cổ phần để giá mỗi cổ phiếu sau khi chia nhỏ sẽ giảm xuống, tạo tính thanh khoản trên thị trường. Thưởng cổ phiếu là một nghiệp vụ làm tăng số lượng cổ phiếu, chứ không làm gia tăng giá trị vốn cổ phần. Nói cách khác, về phương diện hạch toán kế toán, đó chẳng qua là một bút toán chuyển từ tài khoản thặng dư vốn - capital surplus (có công ty lấy từ quỹ đầu tư phát triển) sang vốn điều lệ (capital stock - tính trên mệnh giá) của bảng cân đối kế toán một công ty. Như vậy, việc tăng giá từ thông tin này cũng chỉ dừng lại ở một mức độ hợp lý nhờ tính thanh khoản của cổ phiếu cao hơn trước.

Trên thực tế, cổ phiếu của SJS đã tăng quá mức trước thông tin công ty phát hành cổ phiếu thưởng với tỷ lệ 1 cổ phiếu cũ được nhận 3 cổ phiếu mới. Và gần đây, BMC cũng đưa ra chính sách này, 1 cổ phiếu hiện hữu được nhận 2 cổ phiếu mới, sau đó CP này liên tục tăng giá trước phản ứng thái quá của nhà đầu tư.

Một nhà đầu tư có lý trí khi đầu tư vào cổ phiếu nào đó dựa trên việc đánh giá chỉ tiêu giá trên giá trị sổ sách (PBV - Price/Book Value) thì việc phát hành cổ phiếu thưởng chẳng làm cho họ phải dao động trong quyết định mua của mình. Vì rằng, cổ phiếu thưởng được lấy từ nguồn thặng dư vốn của doanh nghiệp do việc phát hành trước đó mang về một khoản tiền vượt trên mệnh giá cổ phiếu. Không dừng lại ở đó, một nhà đầu tư có lý trí sẽ phải suy nghĩ đến vấn đề “liệu chính sách cổ tức mà công ty công bố trong năm có được duy trì?”.

Chính sách cổ tức

Thời gian qua, trên thị trường đã chứng kiến những công ty niêm yết công bố chính sách cổ tức rất hấp dẫn: ACB 38%, FPT 50%, DHG 25%... Quả thật, bất kỳ một nhà đầu tư nào cũng thấy mờ mắt trước những chính sách cổ tức hấp dẫn này. Nhưng có bao nhiêu trong số cổ tức đó nhà đầu tư nhận được bằng tiền mặt? ACB chi trả 30% bằng cổ phiếu, tương tự 50% cổ tức của FPT cũng bằng cổ phiếu… Liệu rằng công ty có chấp nhận chi trả cổ tức bằng tiền mặt hấp dẫn như thế không? Có lẽ là không thể bởi lợi nhuận để chi trả cổ tức là bút toán của người kế toán, chứ đâu phải dòng tiền mà công ty có. Tạo ra lợi nhuận bằng nghệ thuật hạch toán thì dễ nhưng tạo ra dòng tiền mới là khó. Như vậy, khi doanh nghiệp chi trả cổ tức không bằng tiền mặt thì họ tha hồ sử dụng “nghệ thuật” để tạo ra lợi nhuận.

Một chính sách cổ tức cao được thực hiện dưới hình thức phát hành thêm cũng không làm thay đổi giá trị vốn cổ phần, bởi vì nó chỉ là một bút toán chuyển từ lợi nhuận giữ lại sang vốn điều lệ mà thôi, có chăng là số lượng cổ phần sẽ tăng lên và giá trị mỗi cổ phần giảm đi để tăng tính thanh khoản khi giá cổ phiếu đó đang ở mức cao. Liệu rằng khi đưa ra chính sách trên, các nhà quản lý doanh nghiệp đã lường trước những gánh nặng tài chính trong tương lai chưa? Ở Việt Nam, một chính sách cổ tức thường “neo” vào mệnh giá của cổ phiếu, và khi số lượng cổ phần tăng lên lại càng gia tăng áp lực cổ tức tiền mặt cho những năm sau đó. Việc gia tăng này không chỉ từ chính sách cổ tức cao, mà còn do việc phát hành thêm để chi trả cổ tức. Khi không đủ tiền mặt để chi trả cổ tức thì một điệp khúc vẫn là phát hành thêm, và cứ thế, trong dài hạn, chính sách này càng gia tăng áp lực tài chính cho công ty.

Vấn đề ở đây là, nếu công ty không phát hành cổ phiếu thưởng thì phần vốn đó cũng là của các cổ đông, vậy tại sao phần vốn của các cổ đông mà lại thưởng cho cổ đông? Phải chăng các nhà quản lý doanh nghiệp đang nhắm vào hành vi của nhiều nhà đầu tư không có lý trí và cố gắng “sang sạp” ế cho họ? Nếu công ty có các cơ hội đầu tư, họ có thể thuyết phục nhà đầu tư để giữ lại lợi nhuận mà không nhất thiết đánh lừa nhà đầu tư rằng, tôi có chi trả cổ tức.

Trong khi đó, các nhà quản lý thị trường thì quá thờ ơ trước những thông tin trên, họ liên tục chấp thuận cho các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu tăng vốn, mà không đưa ra những quy chuẩn cho thị trường để đảm bảo sự phát triển có chất lượng của các hàng hóa trên thị trường.

Ths. Lê Đạt Chí Khoa Tài chính doanh nghiệp, Đại học Kinh tế TP. HCM

Kinh tế

Blog Archive

Topics