Đại diện ACB nói năm 2007 vừa qua ngân hàng này đã thu lãi từ đầu tư cổ phiếu 105% tổng giá trị đầu tư, khoảng 1.200 tỷ đồng.
Tại thông tin mới nhất từ Ngân hàng Thương mại Á Châu (ACB), tính đến 31/12/2007 tổng số tiền đầu tư vào chứng khoán của ngân hàng là 9.636,83 tỷ đồng, trong đó đầu tư vào trái phiếu (gồm tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, công trái, trái phiếu và kỳ phiếu của các ngân hàng thương mại Nhà nước, trái phiếu của ngân hàng chính sách, trái phiếu điện lực) là 8.474,35 tỷ đồng (chiếm 88%), đầu tư vào trái phiếu chuyển đổi của Công ty May Nhà Bè 4,8 tỷ đồng (theo mệnh giá), số 1.177,97 tỷ đồng còn lại là đầu tư cổ phiếu.
Theo ông Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ tịch Hội đồng Sáng lập, kiêm Chủ tịch Hội đồng Đầu tư ACB, trong hơn 1.177,9 tỷ đồng đầu tư vào cổ phiếu, số tiền mua cổ phiếu ACB đã chiếm hơn 57,2% (tương đương 673,967 tỷ đồng).
Đây là các khoản đầu tư mang tính chiến lược và dài hạn nhằm bán chéo sản phẩm, mở rộng mạng lưới, tạo ra các liên minh chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng. Những khoản đầu tư này đã được ACB công bố công khai trong thuyết minh và báo cáo tài chính, đăng tải trên website, báo cáo thường niên.
“Tổng số tiền mà ACB đã đầu tư vào cổ phiếu tính đến 31/12/2007 là 1.177,97 tỷ đồng, chiếm 2,8% tổng danh mục đầu tư và cho vay, và chỉ chiếm 1,38% tổng tài sản 101.000 tỷ đồng của ngân hàng. Còn số tiền 8.474,35 tỷ đồng đầu tư vào trái phiếu là khoản đầu tư nhằm phục vụ cho việc quản lý thanh khoản, không rủi ro về giá và không bị ảnh hưởng bởi sự biến động của thị trường cổ phiếu”, ông Kiên khẳng định.
Cũng theo ông Kiên, năm 2007 vừa qua ACB đã thu lãi từ đầu tư cổ phiếu 105% tổng giá trị đầu tư (khoảng 1.200 tỷ đồng), và ACB đã thu hồi toàn bộ vốn các khoản đầu tư cổ phiếu từ trước đến nay trong năm 2007.
“Riêng trong năm 2008, từ đầu năm đến nay, ACB chưa đầu tư một số tiền nào cho cổ phiếu, mọi khoản đầu tư cổ phiếu của ACB đều thông qua công ty chứng khoán ACBS. Tuy nhiên, đến một lúc nào đó chúng tôi sẽ đầu tư mạnh vào cổ phiếu nếu thấy thời cơ nhưng đầu tư trong giới hạn cho phép”, ông Kiên nói.
MB lãi thêm gần 80 tỷ đồng từ đầu tư chứng khoán | n P.V | | Sau 228 tỷ đồng trong năm 2007, chứng khoán mà Ngân hàng Quân đội (MB) đầu tư còn tạo thêm lợi nhuận gần 80 tỷ đồng trong 4 tháng đầu năm 2008.
Thông tin từ MB cho biết, trong những tháng đầu năm, hoạt động của nhiều ngân hàng thương mại gặp khó khăn về tính thanh khoản. Riêng với ngân hàng này, rủi ro thanh khoản được hạn chế tối đa từ chính hoạt động đầu tư chứng khoán trước đó.
“Phần lớn chứng khoán mà MB đã đầu tư là loại tài sản lỏng, góp phần tích cực cho MB hạn chế tối đa rủi ro thanh khoản đồng thời mang lại gần 80 tỉ đồng lợi nhuận trong khoảng thời gian khó khăn đó”, đại diện MB cho biết.
Trong năm 2007, đóng góp một phần lớn trong tổng 609 tỷ đồng lợi nhuận của MB là từ kết quả hoạt động đầu tư chứng khoán (228 tỷ đồng). Năm 2007, tổng danh mục đầu tư chứng khoán của MB là 2.767 tỷ đồng, trong đó chứng khoán đầu tư là 2.476 tỷ đồng và chứng khoán kinh doanh là 291 tỷ đồng (chiếm 0,98% tổng tài sản và 10,5% tổng danh mục đầu tư chứng khoán).
2.476 tỷ đồng chứng khoán đầu tư của MB thực chất là các loại trái phiếu bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu do Ngân hàng Nhà nước phát hành, công trái giáo dục và một số tín phiếu, trái phiếu do các tổ chức tài chính, đơn vị khác phát hành.
“Đó là hình thức đầu tư an toàn vì những chứng khoán này không có rủi ro về giá và không bị ảnh hưởng bởi xu hướng của thị trường cổ phiếu. Danh mục đầu tư chứng khoán của MB tại mọi thời điểm luôn thấp hơn so với giới hạn cho phép về góp vốn mua cổ phần”, MB khẳng định. |
Nhìn lại hoạt động đầu tư chứng khoán của ngân hàng thương mại | n Minh Đức | | Thị trường chứng khoán suy giảm kéo dài; nhiều nhà đầu tư tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thua lỗ. Tâm điểm lo ngại lúc này là hoạt động đầu tư chứng khoán của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng thương mại.
Những ngày qua, nhiều nhà đầu tư, cổ đông giật mình khi tiếp xúc với những con số quá lớn được tổng hợp từ báo cáo tài chính năm 2007 của một số ngân hàng thương mại về hoạt động đầu tư chứng khoán.
Một thống kê cho thấy dẫn đầu trong khối ngân hàng về hoạt động này là Ngân hàng Á châu, khi tổng trị giá danh mục đầu tư chứng khoán là 9.636 tỷ đồng; tiếp theo Ngân hàng Kỹ thương Techcombank 6.842 tỷ đồng, Ngân hàng Đông Nam Á là 3.968 tỷ đồng, Ngân hàng An Bình gần 3.600 tỷ đồng, Ngân hàng Hàng hải 2.169 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoài quốc doanh là 1.678 tỷ đồng…
Đó là những con số được tính ở thời điểm cuối năm 2007. Và nay, khi giá hầu hết cổ phiếu trên sàn niêm yết, cũng như trên thị trường tự do (OTC), đã giảm phổ biến 50%, thậm chí mạnh hơn, làm nảy sinh những lo ngại về khả năng thua lỗ lớn của các ngân hàng, ứng với lượng vốn đầu tư nói trên.
Nếu tính theo “định lượng” trên, với mức giảm 50% của giá chứng khoán, thì khoản lỗ của mỗi thành viên nói trên có thể lên đến cả nghìn tỷ đồng, có thể gạt hẳn mức lợi nhuận của cả năm 2007 tạo dựng được.
Có nhận định cho rằng các ngân hàng đã đổ lượng tiền trên là quá nhiều vào “tự doanh” chứng khoán dẫn đến khả năng lỗ nặng sau những đợt giảm giá kéo dài.
Chưa nói đến sự chính xác và cơ sở thực tế của những suy tính, lo ngại trên, mà ở đây cho thấy một phần còn thiếu của các ngân hàng thương mại trong việc công bố, cập nhật thông tin cụ thể về các khoản đầu tư và mức lỗ - lãi theo từng thời điểm nhạy cảm của thị trường (dù đó là những chênh lệch “ảo” vì chưa cụ thể bán ra) với cổ đông và nhà đầu tư.
Trước hết, nhìn lại tổng hợp trên, đối chiếu với quy định tại Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN do Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 19/4/2005 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, có thể thấy ngay vốn lưu động của hầu hết những ngân hàng trên chỉ khoảng từ 2.500 – 3.000 tỷ đồng nhưng lại đầu tư từ 3.000 tỷ đồng cho tới trên 9.000 tỷ đồng vào chứng khoán vốn. Như vậy, đây là một hiện tượng bất thường.
Sự "bất thường" đó xuất phát từ cách nhìn đánh gộp khái niệm chứng khoán là cổ phiếu trên thị trường có mức giảm tới 50% từ đầu năm đến nay với sự tách biệt về bản chất của chứng khoán nợ và chứng khoán vốn trong tổng vốn đầu tư của ngân hàng, theo hạch toán, kế toán mà Ngân hàng Nhà nước quy định (ứng với các tài khoản 141 và 142).
Trong lượng vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng của mỗi thành viên nói trên, chiếm phần lớn là chứng khoán nợ (trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, chứng chỉ tiền gửi của tổ chức tín dụng…), chờ đáo hạn hoặc có thể bán. Và đáng chú ý là lỗ - lãi của khoản đầu tư vào đây được tính theo % lãi suất, không căn theo thị giá để có thể lỗ tới 50% như đầu tư cổ phiếu (chứng khoán vốn).
Như vậy, cách nhìn đánh gộp như trên là chưa chuẩn xác.
* Từ bài báo “Rủi ro trong kinh doanh tài chính”, VIB Bank có ý kiến phản hồi như sau:
“Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, và theo kết quả kiểm toán của Deloitte, chứng khoán đầu tư bao gồm chứng khoán Nợ và chứng khoán Vốn. Chứng khoán Nợ bao gồm các loại giấy tờ có giá, trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ Việt Nam phát hành, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng TMCP Quốc doanh.
Theo danh mục này, tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu và tín phiếu của Chính phủ và vào trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại cổ phần quốc doanh của VIB Bank là 99,37%. Việc duy trì danh mục đầu tư này nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản và hưởng lãi suất cố định của các ngân hàng thương mại và không chịu ảnh hưởng của biến động giá trên thị trường chứng khoán. Phần còn lại là chứng khoán Vốn chiếm tỷ lệ 0,63%”. |
|